Cụ thể là chúng ta sử dụng núm điều khiển level monitor đã được căn khi mastering như thế nào ?

Monitor level control Digital Domain audio mastering mixing products

Đầu tiên, phải nhắc lại rằng, tín hiệu pink noise band hẹp ở 1 kHz, khi phát ra một channel, ở level - 20 dBFS, sẽ có độ lớn là - 23 LUFS. Hai channel sẽ đo được - 20 LUFS. Và chúng ta đo SPL của từng loa ở 83 dB, thì với hai loa SPL sẽ là 86 dB, level của núm điều khiển lúc này chúng ta sẽ để ở vị trí 0.

Signal generator của Pro Tools. Mặc định level của signal là -20 dBFS chắc chắn không phải là một sự trùng hợp.

Tuy vậy, chỉ những phòng lớn tốt nhất với monitor có headroom lớn, độ phân giải cao, khoảng cách với người nghe đủ xa, ví dụ như trên 2m, mới đáp ứng tốt yêu cầu 83 dB này.

Với thể tích phòng nhỏ, thì mức độ SPL cần được điều chỉnh lại như bảng bên dưới. Phòng nhỏ làm ta cảm nhận độ lớn nhiều hơn so với cùng SPL đó ở phòng lớn, khoảng cách trực tiếp với loa gần hơn, thời gian âm thanh bị phản xạ ngắn hơn.

Tương quan giữa level SPL tham chiếu và kích thước phòng

Kiểm tra music ở level lớn khuyến khích kỹ sư tạo ra sản phẩm có dynamic range rộng. Kỹ sư làm việc ở SPL thấp có xu hướng compress quá nhiều bản master, hiển nhiên là để bản master nghe lớn hơn.

Đây là cách sử dụng núm vặn monitor đã căn level ở vị trí 0 khi playback và mastering:

Bây giờ chúng ta chơi một ca khúc ồn ào, với PLR (Program Loudness Ratio) thấp, và chẳng hạn momentary loudness ở đoạn nhạc lớn nhất là - 6 LUFS. Hãy xem núm vặn level monitor là một cái vòi nước được chia nấc và được đánh số xung quanh. Khi nước yếu, chúng ta vặn vòi nước lớn hết cỡ. Và trong trường hợp này, nhạc ồn ào giống như dòng nước mạnh, để âm thanh phát ra hệ thống loa không quá lớn, chúng ta phải vặn vòi nước nhỏ lại. Cụ thể là vặn núm vặn level xuống vị trí - 14. Kết quả tổng thu được của monitor control là - 20 LUFS.

Qua ca khúc thứ hai, một bản thu kiểu "audiophile" nhẹ nhàng hơn, với PLR cao, và một momentary loudness ở đoạn cao trào ở - 14 LUFS. Để chơi đoạn này một cách hợp lý, chúng ta phải vặn núm level lên vị trí - 6, mang lại tổng - 20 LUFS. Rút ra là tổng của momentary loudness và vị trí núm level nên là - 20 LUFS, là độ lớn đoạn cao trào mà chúng ta hướng đến.

Bây giờ lật ngược lại tình huống. Giả sử thay vì chơi nhạc, chúng ta đang master một bản nhạc jazz được ghi âm tốt, và chúng ta muốn bản master có âm thanh thoáng, rộng mở, dynamic, và rõ ràng, và có vẻ như sẽ có tỷ lệ PLR cao. Trong trường hợp này, chúng ta có thể vặn núm level ở vị trí -6, và master mà không cần liên tục nhìn vào meter. Nếu chúng ta hiểu phòng và loa, loudness và PLR của bản nhạc sẽ có kết quả như bạn đã dự đoán trước.

Nhưng nếu khách hàng hip hop muốn bản thu của họ ồn ào, cạnh tranh bởi vì cuộc chiến độ ồn vẫn đang tiếp diễn (theo quan điểm của họ) thì chúng ta làm thế nào ? Chúng ta có thể bắt đầu với vị trí -15, và bắt đầu làm việc với đôi tai để cảm nhận độ lớn để sản xuất ra sản phẩm cạnh tranh về độ ồn. Nếu chúng ta có thể thuyết phục khách hàng để làm ra một bản master có level thấp hơn một chút, thì lúc đó chúng ta để núm level lên vị trí -13 hay -14 trước khi chúng ta master, lúc này chúng ta có thể có được bass drum với độ phân giải tốt hơn, với độ nảy, và rõ nét. Điều này xảy ra bởi vì khi vặn level lớn hơn, chúng ta sẽ lùi lại việc xử lý để cho bản nhạc đạt được mức độ loudness mong muốn. Không chỉ là về PLR, đó còn là nhiều thứ khác liên quan đến chất lượng âm thanh, và cách làm đơn giản này là một công cụ quan trọng để giúp chúng ta tăng tốc công việc. Nếu chúng ta nhận thấy rằng bản master mà chúng ta đang làm có vẻ bị compress nhiều quá, thì giải pháp tốt nhất là tăng monitor gain hơn một chút và kéo các quá trình xử lý thấp xuống. Phương pháp này cũng giúp chúng ta quay lại vị trí monitor control mà đã giúp chúng ta tạo ra một sản phẩm ở một thể loại nhạc nào đó.

Tất nhiên là chúng ta nên kiểm tra level âm thanh và chất lượng ở những vị trí monitor control khác nhau - ví dụ như là ca khúc này sẽ như thế nào ở level nhỏ. Nhưng việc quay lại vị trí đã được xác định trước giúp mang lại các sản phẩm âm thanh có chất lượng cao và đồng đều. Núm chỉnh monitor control trở thành một công cụ phân tích, chứ không hẳn chỉ là một núm vặn để điều khiển độ lớn.